Tám năm sau, 1986
“Em nghe nói Mrs Englewood đã đến London,” Milicent, Lady
Fitzhugh nói, ở bữa ăn sáng.
Fitz rời mắt khỏi tờ báo. Điều kỳ lạ nhất: Vợ anh ko bao giờ
ngồi lê đôi mách, nhưng cô dường như biết mọi thứ vừa mới diễn ra.
Cô mặc một
chiếc váy buổi sáng màu xanh hoa ngô. Chiếc váy dài, mặc kín đáo cùng với nhiều
đồ nội y bên trong, form váy rộng và kết cấu phần corset chật hơn váy mặc đi dạo
hoặc đi thăm hỏi. Nhưng có thứ gì đó ở vợ anh rất – gần như là quá – giản dị, tới
mức ngay cả chiếc váy thườn thượt kia trông vẫn nghiêm túc và vừa với cô.
Mái tóc màu nâu sáng của cô được buộc ra sau thành búi tóc
nhỏ, không xõa tóc – chưa bao giờ có một sợi nào xõa ra, trừ khi cô dùng búa tạ
đập vỡ lò sưởi bằng gạch. Mắt cô có màu gần giống với tóc cô, đang bận rộn quét qua hết
lá thư này tới lá thư khác. Đôi mắt ngọt ngào – cô ko nhìn ai bằng ánh mắt giận
dữ, thậm chí là hiếm khi bất mãn.
Thỉnh thoảng anh ngạc nhiên vì trông cô quá trẻ. Cô vẫn còn
rất trẻ. Họ đã kết hôn 8 năm và cô vẫn chưa đầy 25.
“Phải,” anh trả lời, “thông tin của em chính xác đấy, như thường
lệ.”
Cô với lấy hũ đựng muối. “Anh biết từ khi nào?”
“Tối qua,” anh nói, tim anh ngừng đập vì mong chờ.
Isabelle. 7 năm từ lần anh thoáng thấy cô vào ngày cô cưới. 8 năm, kể từ lần cuối họ nói chuyện với nhau.
Và giờ cô đang trở lại cuộc sống của anh, người phụ nữ tự do.
Lady Fitz mở tiếp một phong thư khác và liếc qua nội dung bức
thư.
“Cô ấy sẽ háo hức khi gặp anh, em chắc đấy.”
Anh đã biết kể từ lần đầu anh gặp cô, trước đây là Milicent Graves, rằng cô luôn bình tĩnh. Vẫn vậy, thi thoảng vẻ lãnh đạm của cô làm anh ngạc nhiên. Anh
ko biết có cô vợ vào lại hứng thú thật lòng với chuyện tình của chồng mà với
thiếu tính sở hữu như thế - ít nhất là ko phải những người đang bị chiếm mất người
tình.
“Hy vọng thế,” anh nói
“Anh có muốn em thay đổi lại một chút về lịch
trình ko?” cô hỏi mà ko thèm nhìn anh. “Nếu em ko nhầm, ngày mai chúng ta dự định
sẽ có mặt ở khu đóng chai để thử rượu champagne táo và nước soda vị chanh mới.
Còn ngày kia, tới nhà máy bánh quy để thử bánh quế kem và chocolate viên
chiên.”
Lần Isabelle quay về lại trùng với dịp kiểm tra
hương vị các sản phẩm mới tại Cresswell & Graves diễn ra nửa năm một lần.
“Cảm ơn em, nhưng ko cần đâu: anh đã được mời tới
thăm cô ấy vào ngay hôm nay rồi.”
“Ồ,” vợ anh nói.
Vẻ mặt cô thường làm anh nhớ tới món hạnh nhân
đông blancmange, mượt, mềm và hoàn toàn
nghiêm nghị.
Nhưng giờ, cảm xúc khó nói thoáng qua nét mặt cô. Đột nhiên cô có vẻ không còn giống món pudding ngọt
dịu nữa mà như bề mặt hồ chưa từng được khai phá, còn anh, đang đứng ở
trên bờ, nhìn thấy một chuyển động dưới mặt nước, một cái bóng bí ẩn biến mất
quá nhanh tới mức anh ko chắc anh có thể tưởng tượng ra toàn bộ hình ảnh của
nó.
“Vậy hãy chuyển lời hỏi thăm giúp em,” cô lại với lấy
hũ đựng muối.
“Anh sẽ chuyển.”
Cô kiểm tra lại toàn bộ chồng thư, uống nốt trà,
và đứng dậy – cô luôn ăn sáng và rời đi trước anh. “Đừng quên chúng ta được
mong chờ tới ăn tối ở chỗ của Queensberry.”
“Anh sẽ ko quên.”
“Vậy thì, ngày mới tốt lành, thưa ngài.”
“Ngày mới tốt lành, Lady Fitz.”
Dáng đi của cô cũng đơn giản như vóc dáng cô, chiếc
váy xanh gần như không kêu sột soạt khi cô rẽ xuống hành lang. Như thường lệ anh
nghe tiếng bước chân cô xa dần, nhịp điệu và sự nhẹ nhàng của chúng thân thuộc
với anh như chính hơi thở của anh vậy. Khi anh ko còn nghe thấy tiếng của cô nữa,
anh lôi bức thư ngắn của Isabelle ra khỏi túi áo khoác và đọc lại nó.
Fitz thân yêu của em,
(Có phải lời chào hỏi của em quá sốt sắng ko? Dù
sao thì em cũng chưa bao giờ dè dặt và chắc chắn tới giờ vẫn chưa thay đổi.)
Cảm ơn anh vì ngôi nhà đáng yêu mà anh đã sắp xếp
cho em và bọn trẻ. Bọn trẻ thích khu vườn lắm, chúng trốn trong đó. Em đặc biệt
thích căn phòng khách tươi sáng và vui mắt, mà nhìn ra được khoảng vuông xanh
ngay bên kia phố.
Đã lâu rồi từ lần cuối em gặp anh, thêm
một vài ngày cũng ko phải vấn đề gì lớn. Nhưng em thấy mình đặc biệt thiếu kiên
nhẫn muốn gặp lại anh, dù căn nhà vẫn chưa sẵn sàng để đón tiếp khách. Anh sẽ đến
vào ngày mai chứ?
Isabelle của anh.
Bức thư rất thân mật, và chữ ký của cô là thứ ấm
áp hơn cả. Anh đã nghĩ về cô với tư cách là Isabelle trong nhiều năm, nhưng
toàn xưng hô là Miss Pelham hoặc – trong bức thư gần đây của anh – là Mrs
Englewood. Việc cô ký tên thật ở cuối thư thế này rõ ràng làm lời mời càng thêm
thân mật. Isabelle. Cô gái đầu tiên mà anh hôn. Người duy nhất mà anh yêu. Anh
nhét bức thư và giở lại tờ báo. Người hầu tới để mang đĩa của Lady Fitz đi.
Một
ý nghĩ chợt đến với anh. “Đưa cho ta cái đĩa.”
Cô hầu nhìn anh không hiểu.
“cái đĩa trong tay cô.”
Vợ anh để lại một ít trứng bác, hoàn toàn ko giống
cô: người luôn tự phục vụ bữa sáng và ko bao giờ lấy thừa sức ăn. Cô hầu ngạc
nhiên khi anh lấy một ít trứng bằng dĩa.
Anh có lẽ ko thể nuốt nổi nếu ko có sự giúp đỡ của
cà phê. Anh biết là cô thích trứng mặn, nhưng món này giống món muối bác hơn là
trứng bác. Anh phải nói với cô vào lần tới khi anh gặp cô: quá nhiều muối thế
này trong thực đơn sẽ có hại cho sức khỏe. Khó tưởng tượng như 8 năm trước, họ đã trở
thành bạn tốt. Và bạn bè thường quan tâm lẫn nhau.
Milie gặp Helena, em sinh đôi của Fitz, sau khi rời
khỏi phòng cô. Cặp sinh đôi trông ko giống nhau lắm. Fitz, tóc đen và mắt xanh,
trông giống chị cả của họ - Venetia hơn. Khác với Helena, cô thừa hưởng mái tóc
nâu và mắt xanh lá từ bà ngoại của họ.
Sáng nay Helena mặc một chiếc áo jacket nhung xanh
và hợp với chân váy. Giữa ve áo khoác của cô là phần xếp ly của áo sơ mi trắng
trong lành như không khí buổi sớm. Cô đeo một chiếc trâm cài áo chạm khắc (cameo brooch), nhưng ko
phải hình một phụ nữ nhìn nghiêng bằng ngà voi, mà hình một con đại bàng La mã bằng mã não, hoàn
toàn hợp với cô.
Venetia được xem là mỹ nhân trong nhà, nhưng
Helena có nét đáng yêu riêng, ko kể tới sự tự tin, tài năng – và ranh ma hơn bất
kỳ ai họ có thể ngờ tới.
Đầu năm nay, bạn thân của Fitz, Lord Hastings, đã
phát hiện Helena có quan hệ bí mật với ngài Andrew Martin. Ngài Martin là một
người đàn ông trẻ tốt bụng và Milie ko nghi ngờ việc ngài ấy thích Helena nhiều
như cô ấy thích ngài ấy vậy. Vấn đề là ngài Martin thích Helena từ lần đầu họ gặp
nhau vài năm trước, nhưng chưa bao giờ có đủ dũng cảm để coi thường mẹ ngài và
kỳ vọng của gia đình lâu đời là cưới cô em họ 3 đời.
Milie hiểu sức mạnh của tình đầu – bản thân cô
cũng đang bị kẹp chặt lấy nó. Nhưng ngài Martin là người đàn ông đã kết hôn và
Helena, việc bị bắt quả tang với ngài ấy làm nguy hại tới danh tiếng của cô.
Milie và Venetia đã đưa Helena tới bên kia đại dương nhanh nhất có thể, với hy
vọng tạo khoảng cách giữa cô và Martin, Helena cần phải lấy lại lý trí. Chuyến
đi tới Mỹ ko hoàn toàn là vô ích – một loạt các sự kiện xảy ra và cực điểm là
cuộc hôn nhân bất ngờ nhưng hạnh phúc điên cuồng giữa Venetia và Công tước
Lexington. Nhưng thật ko may, trong trường hợp của Helena, xa cách chỉ làm cho
trái tim cô thêm yêu mến Martin. Helena đã có tuổi và độc lập về tài chính; gia
đình cô ko thể ép cô từ bỏ ngài Martin được.
Nhưng từ hồi tháng 1, họ không ngừng để mắt tới
cô.
Helena ko đi bất cứ đâu mà ko có Venetia, hoặc
Milie, hay cô hầu mới của cô ấy Susie, được thuê cấp tốc nhằm mục đích này,
theo sát cô.
Công việc của Susie là thế này, khi xe ngựa nhà
Fitzhugh thả Helena ở công ty nhỏ về xuất bản của cô trên phố Fleet Street,
Susie sẽ ở đó, đợi. Sau đó cô ấy ngồi bên ngoài văn phòng của Helena, đảm bảo
Helena không chuồn ra ngoài vào giữa trưa để hẹn hò ngài Martin.
Việc giám sát ko ngừng này phần nào tiêu diệt
Helena. Cô trông mệt mỏi và thấu xấu hổ vì đáng thương. Milie ghét phải trở
thành những người cầm tù Helena, nhưng cô ko có lựa chọn. Nếu Helena ko nghĩ tới tương lai của chính cô ấy,
vậy thì gia đình phải nghĩ thay cô.
“Helena, đúng người chị muốn gặp,” cô rạng rỡ nói.
“Nhớ là tới uống trà ở nhà Lady Margaret Dearborn
chiều nay nhé.”
Một vụ yêu đương ko phải là lý do để ngăn việc giới
thiệu cho cô một chàng trai trẻ có thể lấy làm chồng – hoặc có lẽ gia đình cô
đã từ bỏ mọi hy vọng gả cô đi.
Điều đó sẽ ko bao giờ xảy ra. Heleana ko hài lòng
với viễn cảnh ở nhà tiếp khách. “Lady Margaret Dearborn điều hành một đám ngựa săn. Khách của bà ấy
ko nói gì ngoài việc đi săn cáo.”
“Em đã từng xuất bản một cuốn truyện về săn cáo, nếu
chị nhớ.
“Xuất bản vì nhiệm vụ ko gây nguy hiểm gì tới em,
hoặc em ko bao giờ đảm nhận nó.”
“Vẫn vậy, nó giúp em có cái để mà nói về ngựa
săn.” Milie kiễng ngón chân và hôn vào má Helena. “Xe ngựa của em đang chờ đấy,
em yêu. Chị sẽ gặp em vào chiều nay.”
“Đợi đã,” Helena nói. “Những gì em được nghe có
đúng ko? Rằng Mrs Englewood đã trở lại Anh?”
Milie lơ đi cơn đau nhói trong lồng ngực và gật đầu.
“Fitz sẽ ghé thăm cô ấy chiều nay. Thực sự là một ngày đáng nhớ của họ, đúng
ko?”
“Em tưởng.” Thắc mắc trong ánh mắt Helena, tuy nhiên,
ko phải về Fitz, mà là về Milie.
Milie không có tính sở hữu, không dạt dào, và không bao giờ thổ lộ tâm tình. Cách tiếp cận bình thản của cô đối với hôn nhân đủ để
thuyết phục mọi người rằng cô ngưỡng mộ, nhưng không yêu chồng mình.
Và trong nhiều năm, chị em gái của anh cũng nghi
ngờ gì đó.
Có lẽ tình yêu ko đc đáp trả giống như bóng ma
trong nhà, hiện diện thoáng qua bên lề cảm xúc, nóng bỏng ở bên trong, bóng râm
dưới ánh nắng.
Cô vỗ nhẹ vào tay Helena và rời đi.
Khu vườn đầy sức sống. Cỏ xanh như bờ sông, cây
cao và râm mát. Chim hót trên những nhánh cây; đài phun nước chảy từ từ và róc
rách. Ở một góc vườn, hoa cẩm tú cầu đang nở, mỗi nụ hoa đều to và rực rỡ như cả
bó.
Nên có một khu vườn, Mrs Graves đã khuyên Milie
vào ngày cô cưới. Một khu vườn và một chiếc ghế
dài.
Milie xòe ngón tay lên những thanh gỗ của chiếc ghế.
Chúng đơn giản nhưng đẹp, được làm từ gỗ sồi và sơn một lớp bóng, màu nâu ấm áp.
Chiếc ghế không thuộc về cô, nó ở đây tới chừng nào cô còn là vợ của Fitz. Nhưng ở
Henley Park, có một bản sao gần giống, Fitz đã tặng cô mấy năm trước, như là bằng
chứng cho sự kính trọng anh dành cho cô.
Còn cô xem nó như dấu hiệu của hy vọng – cô ngốc
nghếch.
“Anh nghĩ có lẽ em ở đây,” chồng cô nói.
Thật kinh ngạc, cô nhìn ngược qua vai. Anh đứng đằng
sau cái ghế, tay anh đặt nhẹ sau lưng nó – vẫn bàn tay thanh tú đã giở bản nhạc
cho cô trong khi lời nói của anh làm cô lộn từ trong ra ngoài. Giờ thì ngón tay
trỏ bên phải của anh đeo một chiếc nhẫn ấn (signet ring), bề mặt nó được khắc lõm hình huy
hiệu
nhà Fitzhugh.
Chiếc nhẫn là quà cô tặng anh. Cảnh tượng nó ở trên tay anh đã
từng khuấy động cô và giờ vẫn khuấy động cô.
Cô muốn chạm vào nó. Liếm nó. Cảm nhận bề mặt kim
loại đó vuốt ve khắp nơi trên cơ thể cô.
“Em nghĩ anh đã đi rồi.” từ trên cầu thang, cô đã
quan sát thấy anh đi dạo. Vẫn còn sớm, mấy tiếng kể từ khi anh gặp Mrs
Englewood. Nhưng khi anh rẽ ở góc, anh vung cây gậy thành một vòng tròn trên ko
trung. Điều đó, với anh, tương tự như một người đàn đang nhảy trên đường phố.
“Anh nhận ra hôm nay anh sẽ qua chỗ của Hatchard.”
Anh nói.
“Em có muốn biết liệu mấy quyển sách em đặt đã có
chưa hay ko?”
“Anh thật tốt, nhưng chắc chắn, anh sẽ có một ngày
bận rộn ở phía trước và – “
“Được rồi, vậy thì: anh sẽ nói qua với người bán
sách.”
“Cảm ơn,” cô lẩm bẩm.
Anh mỉm cười. “Anh rất vui lòng.”
Cô nhớ lại đơn đặt hàng đặc biệt ở Hatchard, mấy
ngày trước. Việc anh nhớ và ngỏ ý muốn kiểm tra giúp cô một lần nữa lại làm cô
run rẩy – cô coi đó như một dấu hiệu khác đánh dấu việc họ trở nên thân thiết với
nhau hơn.
Hôm nay sự ân cần của anh chỉ báo hiệu rằng anh
đang vui đến rạng rỡ trước viễn cảnh được gặp người anh yêu. Anh sôi nổi, trẻ
trung, tỏa sáng, thắp sáng từ bên trong bởi những hy vọng đang được nhen nhóm
và những giấc mơ được thức tỉnh trở lại. Những người ăn xin bên lề đường – bao
gồm cả cô – cũng có thể hy vọng nhận được gấp đôi sự rộng rãi và tử tế của anh.
Anh quay đi nhưng rồi lại dừng lại. “ suýt chút nữa
anh quên mất, em phải quan tâm hơn tới muối em cho vào món trứng bác – nó đủ để bảo quản trong cả thập niên tới.”
Rồi anh rời đi, để cô lại một mình trong vườn.
Fitz đứng bên ngoài cửa nhà Isabelle.
Anh nghĩ
anh đã học được cách giữ bình tĩnh, nhưng cảm xúc ngã nhào trong anh ko
kìm nén được, tim anh ngừng đập. Cơ hội thứ hai – ko nhiều người nhận được ơn huệ
này, và thậm chí ngay cả khi có cơ hội thì cũng ít người có thể nắm được nó bằng
cả hai tay.
Kinh hãi và hy vọng rộn ràng trong máu anh với cường
độ mãnh liệt. Đã rất nhiều năm trôi qua.
Anh đã thay đổi. Cô, cũng vậy, chắc hẵn đã thay đổi.
Liệu họ có gì để nói với nhau khi mặt đối mặt ko?
Anh bấm chuông. Một người hầu trong chiếc mũ trắng
to và tạp dề dài màu trắng mở cửa, nhận thẻ, và mời anh đi theo cô vào nhà. Tuy
nhiên, anh dừng lại ở phòng ngoài, trống ko ngoại trừ một chiếc gương hình chữ
nhật và bên dưới nó là một chiếc bàn hẹp. Một cái tray bạc đựng thẻ khách mời đặt
trên bàn. Bên cạnh, một bức ảnh dễ nhận thấy.
Anh có bản copy của bức ảnh giống thế này để nơi
nào đó sâu bên trong tủ quần áo của anh. Nó được chụp vào cuối hôm đầu tiền anh
ở nhà Pelham, các quý cô trong trang phục lộng lẫy ngày chủ nhật ngồi ở hàng
trước, các quý ông, trông rất uy nghiêm, ngồi phía sau họ. Nhìn anh trông trẻ
ko thể tin được; Isabelle bẽn lẽn, tay cô gập lại đơn giản trong lòng.
Nhưng bàn tay ấy che giấu một bí mật. Ngay sau khi
người chụp ảnh hô được rồi, cô kéo Fitz sang một bên và đưa anh thứ cô để gọn
trong túi: một con chuột sóc bé tẹo mà cô đặt tên là Alice.
Alice rất hoàn hảo dành cho một sinh viên bận rộn:
nó ngủ đông suốt đợt lễ thánh Michael và cả tuần ăn chay, chỉ lòi ra vào tháng
4 và sống trong túi của anh bằng một thực đơn thanh cảnh gồm berry, các loại hạt,
và thỉnh thoảng một con sâu bướm.
“Em luôn giữ bức ảnh đó bên mình,” một giọng quen
thuộc cất lên. “Đó là thứ duy nhất về anh mà em có.”
Anh đặt bức ảnh xuống, và cẩn thận, từ từ, quay về
phía cô.
Isabelle. Cô cao hơn và cả gầy hơn anh nhớ - trông
ko hơn 18 tuổi là bao. Mặt cô có gì đó sắc sảo hơn. Căng ra ở đường quai hàm. Da cô
có vẻ cần cố gắng kéo căng các nét trên khuôn mặt.
Nhưng những nét ấy được chạm đục và tự hào hơn bao
giờ hết. tóc cô vẫn có màu đen sẫm. Lửa trong mắt cô ko giảm bớt. Và anh nhận
ra trong ánh mắt mãnh liệt của cô là Isabelle Pelham của ngày xưa.
Đứng trước cô, những kỷ niệm xa xưa, những ký ức
đã mờ như những trang giấy trong cuốn bản thảo cổ xưa đột nhiên có màu sắc trở
lại, tươi sáng và nổi bật. Isabelle trẻ trung, tay ôm đầy hoa cẩm tú cầu.
Isabelle trong chiếc váy tennis màu trắng, giơ vợt vẫy gọi anh, nụ cười của cô
rạng rỡ hơn ánh nắng chiếu trên bãi cỏ xanh. Isabelle bước đi lạo xạo trên đám
lá vàng rơi, thỉnh thoảng quay lại nói với cô gia sư, người theo sau họ vài bước
chân, và là người anh gần như ko nhận ra, vì mắt anh chỉ để cho cô gái của anh
thôi.
“Mrs Englewood,” anh nói. “Em thế nào?”
“Fitz, Chúa ơi,” cô lầm bầm. “Anh chính xác như những
gì em nhớ. Chính xác.”
Anh cười. “Trông anh vẫn như 19 hả?”
“Ko, tất nhiên là ko. Anh là người đàn ông trưởng
thành. Nhưng mùi hương của anh ko thay đổi chút nào.” Cô lắc đầu nhẹ
“Đến đây, chúng ta ko thể nói chuyện ở hàng lang
đc. Hãy ngồi xuống nào.”
Đồ dùng uống trà đã sẵn sàng. Isabelle rót cho cả hai.
“Nói với em về mọi thứ đi,” cô nói.
“Nói với anh về Ấn Độ đi,” anh nói cùng lúc với
cô.
Cả hai cùng cười. Anh khăng khăng cô phải thết đãi
anh bằng câu chuyện của cô trước, thế nên cô kể. Dehli nóng ko chịu đc vào tháng 4.
Kashmir chắc là nơi đẹp nhất trên thế giới, đặc biệt là Srinagar ở bờ biển Dal
Lake. Cô thích đồ ăn ở Hyderabad nhất. Đổi lại, anh kể cho về những thông tin mới
nhất về bạn bè chung của họ và những người mới quen: tán tỉnh, hôn nhân, con
cái, và những vụ tai tiếng cả to lẫn nhỏ.
Hàng giờ trôi qua. Cô từ từ nâng tách trà lên và
nhìn anh. “Anh vẫn chưa kể gì về anh hết, Fitz. Anh thế nào rồi?”
Anh thế nào nhỉ? “Anh ko có gì để phàn nàn,” anh
nói.
Ánh mắt cô thay đổi và thoáng chút mỉa mai. Nụ cười
thoáng giỡn ở khóe môi. Anh nhớ lại biểu hiện đặc biệt ngày của cô – cô sắp nói
đùa gì đó.
“Em nghe nói anh rất thành công với các quý cô.”
Anh nhìn xuống. Giữa hai người họ, anh thường hay
ngượng hơn. “Đó là cách để giết thời gian.”
Một cách để đối phó – và để quên.
“vậy thì Lady Fitzhugh rất thông cảm rồi.”
“Cô ấy luôn rất tinh ý.”
“Khi ở Ấn Độ, em nghe nói 2 người rất hòa thuận.
Em thực sự ko tin – nhưng em đoán điều đó là đúng.”
Cuối cùng thì họ cũng nói tới nó, chủ đề về cuộc
hôn nhân của anh. Mặt cô ủ rũ, mắt nhìn như thăm mộ một người bạn.
“Với những người rỗi việc,“ Anh thật may mắn khi
quyết định lấy vợ.”
“Vậy … anh mừng vì đã cưới cô ấy à?”
Lần này anh ko nhìn đi chỗ khác. “Anh ko nói thế. Em
biết là anh sẵn sàng đi trên đinh để cưới e mà, nếu hoàn cảnh có thể khác được.”
“Vâng,” cô nói, giọng ko đều. “Vâng, em biết điều
đó.”
Cửa trước nhà mở ra và thoáng có tiếng của bọn trẻ
đang nói chuyện sôi nổi, sau đó là tiếng “suỵt” của người trông trẻ.
“Em xin phép một lát,” Isabelle nói. Cô rời phòng
khách và quay trở lại với một bé trai và một bé gái. “Để em giới thiệu Hyacinth
và Alexander Englewood. Các con, đây là Lord Fitzhugh, một người bạn cũ của bác
Pelly và mẹ.”
Hyacinth 6 tuổi, Alexander ít hơn 1, cả hai đều đẹp,
cả hai đều giống mẹ. Đột nhiên, Fitz ko thể nói đc. Nếu mọi thứ khác đi, bọn trẻ
có thể là con của anh, ko quan tâm tới vẻ nghiêm nghị và thận trọng đầy tò mò của
anh, bọn trẻ dang tay chạy đến và cười toe toét.
Bọn chúng chỉ ở lại vài phút trước khi rời đi với
cô gia sư. Isabelle nán lại một lúc ở cửa, mắt cô dõi theo chúng. “Bọn chúng lớn
rất nhanh.”
Fitz nuốt “Em luôn thích cái tên Hyacinth và
Alexander.”
“Đúng thế. Hyacinth và Alexander Fitzhugh,” cô lẩm
bẩm, nước mắt lấp lánh trong mắt cô.
Cô quay lại chỗ ngồi. Nắng chảy qua tấm rèm đang mở
làm lấp lánh đường viền màu vàng trên đĩa đựng tách. Cô xoay chiếc tách của
mình quanh đĩa – cô chưa bao giờ có một người để dựa vào.
Và sau đó cô nhìn anh, bạo dạn, kiên quyết,
“Isabelle như anh luôn nhớ. “Có phải quá muộn để đòi lại những thứ đáng ra là của
chúng ta không?”
Như thế cô phải hỏi. Như thể anh chưa từng suy
nghĩ giống thế trong những tuần qua kể từ khi nhận được lá thư đầu tiên của cô.
Như thể anh phải giữ cơ hội thứ hai hiếm có và vô giá này bằng hai tay và ko
để nó lại tuột mất lần nữa.
“Không,” anh nói. “Chưa quá muộn.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét